Đền được tạo dựng từ đầu thế kỷ XVII, thờ bà Trần Mã Châu, một vị nữ tướng tài ba đã có công lao to lớn, cùng Hai Bà Trưng đánh tan quân Tô Định, giành lại độc lập cho đất nước. Theo ngọc phả còn được lưu giữ tại đền, Trần Mã Châu hay còn được gọi là Châu Nương, con gái bộ chúa Trưởng Quan, ở đất Nam Xương (Hà Nam). Tuy là nữ nhi nhưng bà có chí khí như các bậc nam nhi, dũng lược đa mưu, tính cách phi thường. Sống trong cảnh nước mất nhà tan, nhân dân đau đớn quằn quại dưới gót giày quân xâm lược phương Bắc, cha của Châu Nương cũng bị chúng sát hại. Nung nấu trong lòng ý chí đền nợ nước, trả thù nhà, bà đã cắt tóc giả làm ni sư, đi khắp các chùa để chiêu mộ anh hùng hào kiệt, cùng đứng lên giết giặc cứu nước. Chùa làng Bảo Châu, nay thuộc xã Quảng Châu, là nơi được bà chọn làm căn cứ chiêu tập quân sĩ. Ái mộ đức cao tài rộng của Châu Nương, nghĩa sĩ quanh vùng đều về tụ hội. Ngay những ngày đầu Bảo Châu đã có nam tướng, nữ tốt được hơn 200 người. Ban ngày tụng kinh niệm Phật, ban đêm luyện tập binh pháp, quyết chiến với Tô Định. Sau khi được Trưng Trắc, Trưng Nhị thâu nạp, đón về để cùng đánh đuổi Tô Định. Thoả ý nguyện, Châu Nương trở về chốn cũ, chọn nơi hiểm yếu, thiết lập danh đồn tiếp tục chiêu mộ quân sĩ khắp nơi. Trong 3 tháng, quân tinh nhuệ đã lên tới 1.300 người. Châu Nương liền đem hùng binh tiến đến sông Hát Giang, yết kiến Trưng Nữ. Trưng Nữ vô cùng phấn khởi, liền giao cho Châu Nương làm thống quản 1000 kị mã, kiêm hành vệ quan tham tán mưu sự. Sau khi đánh đuổi được quân Nam Hán, Trưng Nữ lên ngôi hoàng đế, phong cho Mã Châu làm “Trưởng binh Nội các trung cung nội thị”, tặng thưởng kim ngân 100 hốt, gấm lụa 500 vuông và thuận cho đất Bảo Châu (nơi Mã Châu cư ngụ) làm lăng đền phụng sự sau khi nữ tướng qua đời. Tạ ơn vua, Châu Nương xin được trở về hương quán, thăm hỏi họ hàng thân thuộc, bái tạ gia đường tổ tiên. Xong việc bà trở về Bảo Châu nơi đồn cũ, nhân dân, hào mục nồng nhiệt đón mừng. Bà nói với mọi người rằng: “Nhờ công đức của nhân dân mà thành đạt, dù một ngày ân nghĩa cũng sâu nặng. Thật đáng khen dân ta phong tục thuần hậu lắm thay!". Lại ban thưởng vàng kim 60 hốt chia cho dân để ngày sau tu sửa đền miếu. Truyền quân sĩ mổ bò, lợn khao thưởng nhân dân.
Trưng Vương lên ngôi được 3 năm thì quân Nam Hán lại sang xâm lược nước ta. Trần Mã Châu được lệnh ra quân quyết chiến với giặc. Quân giặc bao vây tứ phía. Trên mình ngựa, tay cầm song kiếm, bà tả xung hữu đột, thấy giặc ngổn ngang. Được nửa ngày, gió thổi làm lộ thân hình, tướng giặc biết đó là nữ liền hô to: “Sĩ tốt khoả thân mà đánh" khiến bà lúng túng, bị thương, quay ngựa chạy về đến Bảo Châu thì hoá. Đó là ngày 3/3 năm Ất Mùi (năm 43 sau CN). Dân làng nơi đây đã lập đền thờ, tế lễ để ghi công đức của Hoàng Bà. Cảm phục và thương xót bậc lương thần đã quên mình vì nước, Trưng Vương truy phong cho Bà là “Thượng đẳng Phúc thần" và chuẩn phê cho làng Bảo Châu là nơi đền chính, phụng sự tế tự.
Tương truyền đền Hoàng Bà rất linh thiêng. Các triều đại nối tiếp về sau đứng lên dẹp giặc, gây dựng cơ đồ đều được Châu Nương linh thiêng hiển ứng, âm phù giúp nước, nên lại được phong: “Thượng đẳng tối linh anh linh hiển ứng" . Đến nay đền còn giữ được 7 sắc phong qua các triều đại. Triều Lê Thái Tổ phong cho Bà là: “Phương Dung trinh thục mĩ nga nhân Uyển Huệ Hoà công chúa.” Gần đây nhất là triều Khải Định năm thứ 4 (tháng 7 năm 1919), sắc phong cho Bà là: “Trinh tĩnh Trung đẳng thần".
Suốt chiều dài lịch sử, trải bao biến cố thăng trầm, đối diện với thiên nhiên dữ dội và khắc nghiệt, đền Hoàng Bà đã nhiều lần phải trùng tu tôn tạo, song vẫn luôn giữ được nét xưa; uy nghi, giản dị, thanh tao. Hiện đền còn giữ được khá nhiều hiện vật quý giá, như: kiệu bát cống, kiệu võng, kiệu Bà, đại tự, hoành phi, câu đối, ca ngợi công đức Hoàng Bà với nhiều nội dung sâu sắc. Cung đệ nhị ngoài tiền đường là bức đại tự gồm bốn chữ: “Từ Quang Phả Bị" (nghĩa là: Nàng phi phàm này đã quy Phật có ánh từ quang chiếu khắp, phổ độ 4 cõi). Cũng tại đây có đôi câu đối: “Quốc xỉ phục thù Tô thủ tội, chung dung nhất kiếm – Nhân thần nữ kiệt Trưng Vương danh cộng thám thiên hoa". (Nghĩa là: Rửa hận Cha, thẹn thùng mất nước, tên Tô Định tham tàn, muốn tìm ngươi cho một nhát kiếm – Người là bậc thần và người nữ oanh kiệt thời Trưng Vương nổi tiếng, tham mưu danh luận, nghìn vẻ dáng như hoa). Đặc biệt, đền còn giữ được bức tượng Hoàng Bà bằng gỗ quý rất đẹp từ thời Bà còn sống, đúng như lời một đôi câu đối ca ngợi: “Bảo sắc đằng không lâm Việt địa – Kim dung phóng diệu chiếu Nam thiên". ( Nghĩa là: Sắc đẹp đã tôn màu vẻ bay khắp không trung, chọn nơi giáng sinh là đất Việt – Hình dung vàng ngọc chiếu khắp trời Nam, toả ra nhiều nét thiêng).
Năm 1997, đền Hoàng Bà đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia. Hàng năm, đền mở hội từ ngày 1 đến ngày 3 tháng 3 âm lịch. Con em quê hương ở khắp mọi nơi cùng khách thập phương nô nức về dự hội, tưởng nhớ người nữ tướng anh hùng của dân tộc và ôn lại truyền thống chống ngoại xâm của ông cha ta. Phần lễ, sau khai mạc của ban tổ chức vào sáng mồng 1, là các đoàn tế trong và ngoài xã dâng hương, theo đó là cán bộ nhân dân các thôn, các dòng họ cùng khách thập phương dâng lễ, chiêm bái nhất tâm nguyện cầu cho mưa hoà, gió thuận, mùa màng tốt tươi, bốn phương vô sự, nhân dân ấm no hạnh phúc. Phần hội có các trò chơi dân gian, như: chọi gà, cờ tướng, múa gậy, đánh đu, giao lưu văn nghệ với nhiều tiết mục múa hát dân ca quan họ, chèo đặc sắc, ca ngợi công đức Hoàng Bà, truyền thống quê hương, đất nước. Cứ 2 năm lại tổ chức một lần rước, có múa rồng, kỳ lân, rước kiệu bát cống, kiệu Bà, với nhiều nghi thức uy nghi, lộng lẫy, hoành tráng.
Đây mãi sẽ là nơi tôn vinh, tri ân công đức của Hoàng Bà – vị nữ anh hùng dân tộc trong buổi đầu dựng nước, nơi bồi đắp lòng yêu nước, niềm tự hào về truyền thống vẻ vang của dân tộc cho muôn đời con cháu mai sau./.