Cổng ngõ (hay cửa) được xem là bộ mặt của các công trình kiến trúc, với chức năng chính là nơi ra vào của cư dân sinh sống trong vùng, trong khu vực, hoặc trong mỗi một công trình, nó còn có chức năng phòng vệ, ngăn ngừa sự xâm phạm của các thế lực bên ngoài. Theo quan niệm của người xưa, cổng ngõ là nơi ngự trị của thần linh để bảo vệ và che chở cho chủ nhân của công trình.
Huế là nơi còn bảo lưu nhiều dạng hình cổng ngõ mang đặc trưng riêng, trong đó có cổng thành, cổng cung điện, cổng lăng tẩm, phủ đệ, đình chùa, công trình công cộng... và một số cổng ngõ mới xuất hiện gần đây như cổng làng văn hoá, cổng tổ dân phố văn hoá... Tuỳ thuộc vào công năng của mỗi công trình mà cổng ngõ được thiết kế, xây dựng một cách phù hợp cả về kiến trúc, thẩm mỹ lẫn quy mô công trình.
Để có cái nhìn tổng thể về các dạng hình cổng ngõ, chúng tôi xin lần lượt giới thiệu từng dạng hình cổng ngõ ở Huế có kiến trúc, mang tính thẩm mỹ đặc trưng của Huế mong góp phần gìn giữ những nét kiến trúc độc đáo này.
Kinh thành Huế được xây dựng từ đầu thế kỷ XIX (dưới thời vua Gia Long và Minh Mạng), toạ lạc ở phía Bắc sông Hương, mặt quay về hướng Nam. Kinh thành Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc kiến trúc truyền thống Việt Nam, tư tưởng triết lý phương Đông với thuyết âm dương ngũ hành cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng kiến trúc quân sự phương Tây kiểu Vauban.
Trong quá trình quy hoạch và xây dựng kinh thành Huế, các nhà kiến trúc đã kiến tạo Kinh thành Huế có 4 cổng. Các cửa của Kinh thành Huế được người xưa đặt tên theo phương vị đối xứng nhau từng đôi một, trong đó mặt Nam gồm 4 cổng: Thể Nhơn (cửa Ngăn), Quảng Đức (cửa Ngăn trên, cửa Sập), Chính Nam (Nhà Đồ), Đông Nam (Thượng Tứ); mặt Bắc gồm 2 cổng: Chính Bắc (cửa Hậu), Tây Bắc (cửa An Hoà); mặt đông gồm 2 cổng: Chính Đông (Đông Ba), Đông Bắc (Kẻ Trài); mặt Tây gồm 2 cổng: Chính Tây, Tây Nam (cửa Hữu). Ngoài ra Kinh Thành còn có một cổng thông với Trấn Bình Đài ở góc Đông Bắc của Kinh Thành (thành Mang Cá) có tên là Trấn Bình.
Các cổng của Kinh thành Huế hầu hết được xây dựng vào hai giai đoạn: giai đoạn đầu (năm 1809) xây phần cổng vòm, giai đoạn 2 (năm 1829) xây thêm vọng lâu 2 tầng.Kích thước của các cổng thành được ghi lại trong Đại Nam Hội Điển Sự Lệ như sau: phần cổng vòm cao 2 trượng (khoảng 8,5m), riêng vòm cửa cao 1trượng, 2 thước, 2 tấc (khoảng 5,2m), rộng 9 thước (khoảng 3,8m); phần vọng lâu 2 tầng cao 2 trượng 1 thước (8,9m), rộng 2 trượng 8 tấc (khoảng 8,8m).
Vật liệu xây dựng cổng thành chủ yếu là gạch vồ, đá và vôi mật. Trước mỗi cổng thành đều có biển gắn bằng đá thanh ghi tên của cổng thành (Quảng Đức, Thể Nhơn, Chính Nam...). Vọng lâu được kiến trúc theo dạng nhà bia trong các chùa Thiên Mụ, Diệu Đế, Thánh Duyên hay trong các khu lăng tẩm của các vua triều Nguyễn ở Huế. Bốn mặt của vọng lâu đều có trổ cửa vòm, hai bên cửa chính trổ 2 cửa sổ tròn trang trí chữ Thọ, hai mặt còn lại trổ cửa tròn có cùng kích thước nhưng trang trí hoá thị. Phầ mái của vọng lâu đều lợp ngói ống hoàng lưu li. Các bờ nóc, bờ quyết trang trí hình giao long cách điệu. Chính giữa bờ nóc trang trí hình khối hoa sen đang nở trên nền lá sen.
Để đi lên tầng trên của cổng thành, phía tả, hữu mặt trong của thành có hai lối bậc cấp bằng đá gan gà hoặc gạch Bát Tràng. Hai hệ thống bậc cấp này được thiết kế trải dài, ăn khuyết vào thân thành. Hai lối lên hướng vào cửa chính vọng lâu tạo thành con đường hình vòng cung chạy băng qua bên trên phía trong cổng vòm dẫn lối vào vọng lâu.
Tại tầng này, cả 4 mặt đều trổ cửa vòm có cùng kích thước 2,15mx4,45m, riêng mặt trước có trổ thêm 2 cửa nhỏ đối xứng nhau với kích thước 1,35mx3,95m. Từ tầng 1của vọng lâu, có thể đi lên tầng trên bằng hệ thống bậc cấp xây bằng đá. Mỗi mặt trước và sau đều trổ cửa vòm 1,32mx1,90m, riêng hai mặt hông trổ cửa tròn đường kính 1,28m, trang trí hình hoa thị.
Sự kết hợp hài hoà giữa hệ thống cổng vòm, vọng lâu với những đường nét trang trí của hệ thống của cửa tròn, uốn lượn của bờ nóc, bờ quyết... làm cho các cổng thành trông uy nghi, chắc khoẻ nhưng không có cảm giác nặng nề.
(Nguồn: Codohue)