Giới thiệu đất nước - con người Eritrea
Eritrea (phát âm tiếng Anh: /ˌɛrɨˈtreɪə/, Bản mẫu:IPAlink-en), Arabic: إرتريا Iritriya), officially the Quốc gia Eritrea, là một quốc gia Phi Châu, giáp Sudan về phía tây, Ethiopia về phía nam , vàDjibouti về phía đông nam.
Phần phía đông và đông bắc Eriteria còn có các đảo ven bờ trong biển Đỏ. Quần đảo Dahlak và rất nhiều đảo thuộc quần đảo Hanish thuộc lãnh thổ Eriteria. Eriteria có diện tích 118,000 km² và dân số ước tính khoảng 4,400,000 người. Thủ đô là Asmara.
Italia đã từng xâm chiếm Eirteria và chính phủ Italia xem Eriteria như một thuộc địa vào ngày 1 tháng 1 năm 1890. Năm 1936, Eriteria cùng với Ethiopia và một phần Somali trở thành một tỉnh của Italia với tên gọi Đông Phi thuộc Ý Italian East Africa (Africa Orientale Italiana).
Người Anh thế chân người Ý quản lý Eriteria vào năm 1941 [3] dưới danh nghĩa vùng đất ủy trị của Hội Quốc Liên đến năm 1951 khi Eiriteria liên kết với Ethiopia thông qua nghị quyết 390 của Liên Hiệp Quốc (tháng 12 năm 1950).
Cũng từ thời điểm này, tại Eritrea người dân nổi dậy chống lại sự hợp nhất với Ethiopia. Hành động này châm ngòi cho việc đi đến quyết định của chính phủ Ethiopia tuyên bố Eritrea là tỉnh thứ 14 của Ethiopia vào năm 1962. Hành trình tìm kiếm lại độc lập của Eritrea kéo dài 31 năm và kết thúc vào năm 1991 với sự trung gian hòa giải của Liên Hiệp Quốc.
Theo đó sẽ tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về tương lai của Eritrea và người dân Eritrea đã chọn con đường trở thành một nước độc lập. Eritrea tuyên bố độc lập và được quốc tế công nhận vào năm 1993
Hệ thống hành chính
Eritrea được chia thành 6 vùng (zobas) và các vùng được chia thành các đơn vị nhỏ hơn gọi là quận ("sub-zobas"). Điểm đặc biệt là ranh giới các vùng được phân chia dựa trên đường phân thủy của các lưu vực sông.
Việc này thực hiện cùng lúc hai mục đích của chính phủ trung ương là trao quyền cho chính quyền địa phương trong quản lý khả năng phát triển nông nghiệp và loại bỏ các yếu tố xung đột gây ra trong lịch sử liên quan đến tranh chấp tài nguyên nước.
Chính Trị và Chính Phủ
Eritrea là một quốc gia độc đảng dưới sự lãnh đạo của Mặt Trận Nhân Dân Vì Dân Chủ và Pháp Lý People's Front for Democracy and Justice (PFDJ).[5]. Các nhóm chính trị khác không được phép hoạt động mặc dù Hiến Pháp (không được thực thi) năm 1997 quy định sự tồn tại của đa đảng. Quốc Hội Eritrea có 150 ghế trong đó EPLF chiếm 75 ghế.
Các cuộc tổng tuyển cử đã được lên kế hoạch nhưng đều bị hủy bỏ, chưa có một cuộc tổng tuyển cử được tổ chức tại quốc gia này [6]. Các nguồn thông tin về hoạt động chính trị địa phương ở Eritrea hiếm khi được công bố.
Tháng 9 năm 2001 chính phủ đóng cửa tất cả các cơ quan truyền thông tư nhân, những người có tiếng nói bất đồng đều bị bắt giam mà không cần xét xử
Tổng Tuyển Cử
Tổng tuyển cử toàn quốc Eritrea được dự trù thực hiện trong năm 1995 nhưng sau đó trì hoãn đến 2001 với lí do là 20% lãnh thổ quốc gia còn bị Ethiopia chiếm giữ, các cuộc tổng tuyển cử sẽ được tiến hành sau khi xung đột với Ethiopia được giải quyết.
Tuy nhiên, các cuộc bầu cử ở địa phương vẫn được tiến hành. Vòng bầu cử ở địa phương được tiến hành gần đây nhất là vào tháng Năm năm 2004.
Quan hệ ngoại giao
Eritrea là thành viên chính thức của tổ chức Cộng Đồng Phi Châu (African UNI0N-AU), tiền thân của Tổ chức Liên Minh Phi Châu (Organization of African Unity_OAU) ngày nay nhưng nước này đã rút quan sát viên khỏi tổ chức này vì cho rằng nước này đã không hành động đủ mạnh trong việc giải quyết tranh chấp lãnh thổ giữa Eritrea và Ethiopia.
Mối quan hệ Eritrea và Hoa Kỳ khá phức tạp. Mặc dù hai quốc gia đã từng sát cánh trong cuộc chiến chống khủng bố nhưng mối quan hệ không mấy tốt đẹp ở các lĩnh vực khác.
Từ tháng 11 năm 2008, mối quan hệ này trở nên xấu hơn khi trợ lý thư ký Hoa Kỳ Jendayi Frazer gọi Eritrea là quốc gia bảo trợ khủng bố và chính phủ Mỹ liệt nước này vào Trục ma quỷ gồm Iran và [[Cuba [9].
Lí do của hành động này là do sự hiện diện tại một cuộc họp của nhóm đối lập được tổ chức tại Asmara của Sheikh Hassan Dahir Aweys, một lãnh đạo Hồi Giáo li khai Somali có quan hệ với nhóm khủng bố Al Queda. Các trừng phạt về kinh tế có thể sẽ sớm được áp dụng [10]
Mối quan hệ với Italia và EU cũng căng thẳng trong ba năm trở lại đây.
Mối quan hệ với Ethiopia chuyển từ liên minh sang thù địch đưa đến cuộc chiến tranh từ tháng 5.1998 đến tháng 6.2000. Cuộc chiến này đã làm 123,000 người Ehiopia và 19,000 người Eritrea bỏ mạng [11] [12][13] were killed.
Eritrea cũng có những xung đột biên giới với Sudan, một cuộc chiếm với Yemen về chủ quyền quần đảo Hanish nổ ra năm 1996 và gần đây là các xung đột biên giới với Ethiopia.
Chính phủ và sự kiểm duyệt báo chí
Trong hai năm 2007 và 2008, tổ chức Ký Giả Không Biên Giới (Reporters Without Borders) trong "Chỉ số tự do báo chí toàn cầu hằng năm" Eritrea xếp hạng 169 toàn cầu, chiếm vị trí được Bắc Triều Tiên nắm giữ trong nhiều năm [14][15].
Tổ chức này khẳng định rằng ở Eritrea các tờ báo tư nhân đã bị đóng cửa và bị chính phủ của tổng thống Isaias Afewerki xua đuổi. Tác giả của những bài báo có ý kiến phê bình chính phủ lập tức bị bỏ tù và trong số rất nhiều nhà báo bị cầm tù, 4 người đã chết trong sự giam cầm [14].
Địa lý
Eritrea nằm ở vùng Sừng Châu Phi, phía Đông và Đông Bắc giáp Hồng Hải. Quốc gia này gần như bị chia cắt bởi một trong những dãy núi dài nhất thế giới là địa hào Đông Phi (Great Rift Valley), với đất đai màu mỡ phía Tây, địa hình thấp dần xuống sa mạc ở phía Đông.
Afar Triangle hay còn gọi là Trũng Eritrea có thể là điểm giao nhau của ba mảng nền đang tách giãn là Mảng Arab và hai phần của Mảng Phi châu (phân mảng Nubian và phân mảng Somali).
Sự tách giãn của ba mảng này làm cho Địa Hào Đông Phi ngày càng sâu và rộng. Điểm cao nhất cả nước là đỉnh Emba Soira, nằm ở trung tâm cả nước với độ cao 3,018 mét trên mực nước biển.
Các thành phố chính của Eriteria gồm thủ đô Asmara, thành phố cảng Asseb, thành phố Massawa ở phía đông và thành phố Keren ở phía bắc.
Môi Trường
Eritrea là quê hương của nhiều quần thể voi. Các vua Ptoleme của Ai Cập đã từng sử dụng chúng như một lực lượng tham gia chiến dău1 trong thế kỷ thứ III trước Công Nguyên.
Trong khoảng thời gian từ 1955 đến 2001, không có một báo cáo nào cho thấy sự tiếp tục hiện diện của voi và chúng được cho là nạn nhân của chiến tranh giành độc lập. Tháng 12 năm 2001, người ta phát hiện khoảng 30 con với khoảng 10 con nhỏ gần sông Gash. [21]
Năm 2006, Eritrea trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giời chuyển toàn bộ vùng đất duyên hải thành khu bảo tồn thiên nhiên. Một khu vực với 1,347 km (837 dặm) đới ven bờ, cùng với 1,946 km (1,209 dặm) đường bờ với hơn 250 đảo nằm dưới sự bảo tồn của chính phủ.
Kinh Tế
Giống như phần lớn các quốc gia Phi Châu khác, nền kinh tế Eritrea chủ yếu dựa vào hoạt động sản xuất nông nghiệp với 80% dân số làm việc trong ngành trộng trọt và chăn nuôi. Hạn hán là nguyên nhân thiên tai chủ yếu tác động đến nền nông nghiệp nước này.[22]
Cuộc chiến giành độc lập với Ethiopia đã gây tổn thất nặng nề cho nền kinh tế. GDP giảm 1% vào năm 1999 và 2% vào năm 2000. Năm 2000, quân đội Ethiopia mở một cuộc tấn công lớn và miền Nam Eritrea gây thiệt hại 600 triệu USD cho nền kinh tế với 225 triệu tổn thất từ gia súc và 55,000 nhà cửa bị phá hoại. Cuộc tấn công này nhắm đến vùng sản xuất lương thực chính yếu của Eritrea gây ra việc sụt giảm 62% sảm lượng nông nghiệp [23][24]
Trong suốt những năm tháng chiến tranh, Eritrea cũng đã nỗ lực phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng như mở đường, cải thiện hệ thống cảng, sửa chữa những cung đường và cầu bị tàn phá do chiến tranh như là một phần của chương trình Warsay Yika'alo. Thành quả quan trọng nhất của dự án này là việc xây dựng tuyến quốc lộ ven biển dài hơn 500km nối Massawa với Asseb cũng như khôi phục tuyến đường sắt quốc gia.
Tương lai nền kinh tế Eritrea khá mờ ám. Việc cắt đứt giao thương với Ethioipia, quốc gia trước đây luôn sử dụng các cảng của Eritrea để xuất nhập hàng hóa, để lại cho Eritrea nhiều lỗ hổng cần khỏa lấp. Tương lai nền kinh tế dựa vào nội lực của nền kinh tế cũng như giải quyết những vấn đề bức thiết như nạn mù chữ cao, lao động thiếu tay nghề, cơ sở hạ tầng lạc hậu.
Một báo cáo ngày 6 tháng 5 năm 2008 cho thấy Eritrea là quốc gia có giá nhiên liệu cao nhất thế giới với một gallon xăng có giá 9.58USD, cao hơn 85 cent so với quốc gia đứng thứ hai là Na Uy
Xã Hội
Dân Cư
Eritrea là một quốc gia đa chủng tộc. Một cuộc điều tra dân số độc lập cho thấy người Tigrinya và Tigre chiếm 80% dân số. Hai nhóm này hợp thành nhóm dân số nói tiếng Semitic, ngôn ngữ chính của quốc gia này.
Phần còn lại của dân số là tập hợp của những nhóm người Afro-Asiatic như người Saho, Hedareb, Afar, và Bilen. Những nhóm người này được xem là thổ dân đầu tiên của vùng Sừng Châu Phi. Ngoài ra còn có một số người thuộc nhóm Nilotic. Tại Asmara còn có sự hiện diện của một số ít người Eritrea gốc Ý và người Tigray gốc Ethiopia.
Mỗi một tộc người có một ngôn ngữ riêng, rất nhiều nhóm thiểu số sử dụng nhiều hơn một ngôn ngữ trong đời sống hằng ngày.
Nhóm người mới nhất ở Eritrea là người Rashaida. Họ du nhập vào nước này ở thế kỷ XIX [26] từ phía bên kia bờ Hồng Hải. Họ là những cư dân du mục, có quan hệ hôn phối với người Tigre và Beja. Tổng dân số của nhóm này khoảng 61,000 người, chiếm khoảng 1% dân số.
Những nhóm thiểu số ít có sự tác động đến đời sống của Eritrea.
Ngôn Ngữ
Có rất nhiều ngôn ngữ hiện đang được sử dụng thường nhật tại Eritrea. Quốc gia này có hai ngôn ngữ chính thức đồng thời là ngôn ngữ văn phòng chủ yếu là tiếng Tigrinya và tiếng Ả Rập. Tiếng Ý và tiếng Anh cũng được sử dụng rộng rãi [27]
Phần lớn ngôn ngữ tại Eritrea có nguồn gốc từ ngôn ngữ Sematic và Cushitic của họ Afro-Asiatic. Tiếng Sematic là tiếng Ả Rập cổ được sử dụng bởi các nhóm người Rashaida Arabs), Tigre, Tigrinya,và Dahlik. Tiếng Sematic của người Tigre và Tigrinya được sử dụng rộng rãi bởi 80% dân số. Tiếng Anh được sử dụng phổ biến trong giới học thức như là di sản của thời thuộc địa Anh. Tiếng Ý là di sản còn lại của thời thuộc địa Ý.
Giáo Dục
Có 5 cấp học tại Eritrea gồm Mẫu Giáo, Tiểu Học, Trung Ấu, Trung Học Cơ Sở, và Hậu Trung Học Cơ Sở. Có gần 238,000 học sinh đang theo học Tiểu Học, Trung Ấu, Trung Học Cơ Sở, và Hậu Trung Học Cơ Sở.
Toàn quốc có khoảng 824 trường học [28] và 2 Đại Học (Đại học Asmara và Viện Khoa Học và Công Nghệ) cũng như nhiều trường Cao Đẳng và Trung Cấp Nghề khác.
Một trong những mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục Eritrea là cung cấp giáo dục căn bản cho người dân bằng tiếng mẹ đẻ cũng như phát triển khả năng tự tuy duy của học sinh để chống lại đói nghèo và bệnh tật. Xa hơn là trang bị cho học sinh những kỹ năng làm việc cần thiết trong một nền kinh tế toàn cầu đang thay đổi.
Hệ thống giáo dục eritrea cũng được thiết kế để khuyến khối doanh dân mở trường đào tạo, tạo cơ hội tiếp cận giáo dục công bằng đến mọi người như chống phân biệt giới tính, chống phân biệt chủng tộc, chống phân biệt tầng lớp trong xã hội, và thúc đẩy việc học tập suốt đời của người dân.
Rào cản trong giáo dục Eritria là những định chế truyền thống, học phí, và chi phí cơ hội của các gia đình có thu nhập thấp
Tôn Giáo
Eritrea có hai tôn giáo chính là Đạo Hồi và Cơ Đốc với số lượng tín đồ xấp xỉ nhau. Phần lớn tín đồ Hồi Giáo thuộc phái Sunni, tín đồ Cơ Đốc thuộc dòng Chính Thống Giáo Eritrean Orthodox Tewahdo Church và một số lượng tương đối lớn người theo Công Giáo La Mã Roman Catholic. Tin Lành và các nhóm khác cũng hiện diện trong đời sống tâm linh của nước này.
Từ tháng 5 năm 2002, chính quyền Eritrea chính thúc công nhận sự hoạt động của các tôn giáo: Chính Thống Giáo (Eritrean Orthodox Tewahdo Church), (Đạo Hồi phái Sunni), Công Giáo La Mã (Catholicism, và Tân Giáo dòng Luther (Lutheran). Các nhóm khác muốn tự do hoạt động phải trải qua một quá trình đăng ký nghiêm ngặt.
Một trong những yêu cầu đó là các nhóm tôn giáo được yêu cầu cung cấp thông tin cá nhân của các tín đồ cho nhà chức trách. Một số tổ chức tôn giáo dù đã đáp ứng tất cả các yêu cầu của chính phủ vẫn chưa được cấp phép hoạt động [cần dẫn nguồn]
Các nhóm Jehovah's Witnesses, Bahá'í Faith, Seventh-day Adventist Church, và rất nhiều giáo phái Tin Lành không được cấp giấy phép và không thể hoạt động tự do. Chính phủ đã thực thi các lệnh cấm một cách có hiệu quả và nhiều giải pháp đã được đưa ra để ngăn chặn các tín đồ hành lễ. Nhiều người đã bị tống giam trong thời gian dài. Không một cái có cơ hội tiếp cận đến tòa án để khiếu kiện công bằng.
Bảng báo cáo năm 2006 về Quyền Tự Do tín ngưỡng của Ủy Ban Tôn Giáo Hoa Kỳ đã xếp Eritrea 3 năm liên tiếp vào nhóm nước "Đặc Biệt Quan Ngại" về tự do tín ngưỡng [30].
Có một số ít người Do Thái còn tiếp tục sinh sống tại Eritrea, họ hình thành một cồng đồng của vài trăm người sinh sống tại thủ đô Asmara. Họ là con cháu của người Do Thái đã vượt biển từ Aden (Yemen) sang vào nửa cuối thế kỷ XIX
Văn hóa
Eritrea có sự giao lưu thượng mại từ lâu đời với nhiều quốc gia trên thế giới, điều này thể hiện rõ nét trong một nền văn hóa đa dạng của đất nước. Thủ đô Asmara là nơi diễn ra sự giao lưu mạnh mẽ nhất. tại đây người ta có thể thấy sự hiện diện của các quán cà phê phục vụ các thức uống tương tự như tại Ý. Ở đây cũng đồng thời hiện diện sự pha trộn ven hóa bản xứ của người Tigrinya với văn hóa Ý. Điều này gần như không thấy xuất hiện tại các vùng nông thôn.
Trong thời thuộc địa và những năm đầu lập quốc, các phim Ấn của Bollywood thịnh hành tại thành thị trong khi phim Mỹ và Ý thì được trình chiếu trong các rạp. Sự thay đổi đã diễn ra vào những năm 1980 và khi Eritrea độc lập từ Ethiopia, phim Mỹ dần trở nên phổ biến. Sự cạnh tranh còn có sự tham gia của những nhà làm phia địa phương.
Trang phụ truyền thống của người Eritriea tương đối đa dạng. Phụ nữ vùng thấp mặc đầm truyền thống có màu nhạc trong khi áo đầm truyền thống của người Tigrinya có màu trắn nhẹ. Người Hồi giáo vẫn giữ trang phục truyền thống của họ với mạn che đầu.
Các môn thể thao phổ biến ở Eritrea có bóng đá và cưỡi xe đạp. Trong những năm gần đây, các vận động viên điền kinh của Eritrea đạt được những thành công nhất định trên đấu trường quốc tế.
Gần như duy nhất ở lục địa đen có một giải đua xe đạp quy mô lớn là Tour of Eritrea. Giải đấu này được hình thành từ thời thuộc địa, năm 1946 [33]. Đường đua bắt đầu từ những bãi biển của Masawa để leo lên vùng cao với các thung lũng và hẻm vực của thủ đô Asmara. Từ đây, các courer để đèo để xuống vùng đất thấp Gash-Barka Zone, và trở về thủ đô từ hướng Nam.
Theo Wikipedia